hoàng tử tất đạt đa
Trong năm 2022, Masan có kế hoạch mở từ 80 - 100 cửa hàng WIN trên cả nước. Theo kết quả tài chính hợp nhất, doanh thu thuần trong 6 tháng đầu năm của Masan đạt đạt 36.023 tỷ đồng. EBITDA trong kỳ này của Masan tăng trưởng 17,5% lên 7.340 tỷ đồng. Việc cải thiện này chủ
Phòng Khách. Sofa bọc da nâu bóng SF0008. Quick View. Phòng Khách. Sofa góc đẹp SF0007. Quick View. Phòng Khách. Bộ sofa góc da SF0006. Quick View.
Với vẻ ngoài luôn chỉn chu và thanh lịch, Nữ hoàng Anh Elizabeth II chắc chắn là một trong những tượng đài của phong cách Hoàng gia. Đơn giản mà sang trọng, nổi bật đầy quyền lực, Nữ hoàng đã để lại cho hậu thế những khoảnh khắc thời trang mang tính biểu tượng vĩnh
Tác phẩm thứ 52 của Du Tử Lê/Mẫu bìa 1 và 4: Đa Mi/Minh họa: Nguyễn Đình Thuần/Trình bày: Vương Trùng Dương/Nhà in: 5 Star printing HT Productions phát hành lần thứ nhấ Đỗ Tấn Đạt; Đỗ Tấn Đạt. đỗ thành đồng; Đỗ Tiến Đức; Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo
CÔNG TY TNHH ĐIỆN TỬ KIẾN ĐẠT. Đường Nguyễn Tất Thành, Xã Định Trung, Thành phố Vĩnh Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam. 98/1/7 Hoàng Diệu, Phường 5, Thành phố Đà Lạt, Tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. CÔNG TY TNHH KĐV.
mimpi menangkap ikan gabus dengan tangan togel.
Mới nhất Thời sự Góc nhìn Thế giới Video Podcasts Kinh doanh Bất động sản Khoa học Giải trí Thể thao Pháp luật Giáo dục Sức khỏe Đời sống Du lịch Số hóa Xe Ý kiến Tâm sự Thư giãn Du lịchĐiểm đếnQuốc tế Thứ sáu, 18/10/2019, 1405 GMT+7 Tại Nepal và Ấn Độ, du khách có thể tham quan vườn Lâm Tỳ Ni, Bồ Đề Đạo Tràng, vườn Lộc Uyển và thành Câu Thi Na. Lâm Tỳ Ni, nơi Đức Phật đản sinh Lâm Tỳ Ni hay Lumbini nằm ở vùng đồng bằng Terai, miền nam Nepal là một trong bốn thánh tích Phật giáo quan trọng nhất. Nơi đây từng bị lãng quên cho tới năm 1896, khi các nhà khảo cổ học phát hiện trụ đá của vua Mauryan Asoka vua A Dục, có nguồn gốc từ năm 249 TCN. Trên đó có ghi sắc lệnh, cho biết đây là nơi hoàng hậu Maya Devi sinh thái tử Siddhartha Gautama thái tử Tất Đạt Đa năm 623 TCN. Khu di tích bao gồm bể Shakya, đền thờ hoàng hậu Maya Devi, cột trụ vua A Dục làm bằng đá sa thạch. Ngoài ra còn có tự viện viharas và phần còn lại của bảo tháp Phật giáo có nguồn gốc từ thế kỷ 3 TCN. Ngày nay, Lâm Tỳ Ni là một trong bốn trung tâm hành hương của Phật giáo, được mệnh danh là Tứ thánh địa. Năm 1997, UNESCO đã công nhận nơi đây là di sản văn hóa thế giới. Bên cạnh trụ đá vua A Dục là đền thờ hoàng hậu Maya Devi. Ngôi đền được xây dựng lại với 4 bức tường trắng, nhằm bảo tồn di tích đã được khai quật. Vào bên trong, du khách có thể chiêm ngưỡng bức phù điêu mô tả sự kiện hoàng hậu hạ sinh thái tử hay phiến đá có in dấu chân nhỏ, được khắc bởi vua A Dục, để đánh dấu nơi đản sinh của Phật. Ảnh Shutterstock/Angela Meier. Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật thành đạo Quần thể đền Mahabodhi rộng 4,8 ha, thuộc thị trấn Bodh Gaya Bồ Đề Đạo Tràng, bang Bihar, Ấn Độ là nơi Đức Phật đạt giác ngộ. Ngôi đền đầu tiên được xây dựng bởi vua A Dục vào thế kỷ 3 TCN và những ngôi đền hiện tại có nguồn gốc từ thế kỷ 5, 6. Đây là một trong những công trình Phật giáo đầu tiên được xây dựng hoàn toàn bằng gạch, vẫn được bảo tồn cho tới ngày nay. Quần thể đền hiện còn có Kim cương tòa, Cội bồ đề nơi Đức Phật thành đạo. Trên ảnh là Cội bồ đề, nằm ở phía tây của đền chính. Đây là nơi thái tử Tất Đạt Đa thiền tọa, tu khổ hạnh và đạt giác ngộ, trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Cây bồ đề ngày nay không phải cây gốc từ thời Phật thành đạo. Bên cạnh cây bồ đề là ngai kim cương, bao quanh bởi hàng rào đá sa thạch được xây dựng lần đầu bởi vua A Dục, đánh dấu nơi Phật ngồi và thiền định. Ngày nay, chỉ còn lại vài cột trụ của hàng rào còn sót lại. Trên đó là những hình chạm khắc mặt người, động vật và các chi tiết trang trí. Vườn Lộc Uyển, nơi Đức Phật giảng bài pháp đầu tiên Sarnath hay vườn Lộc Uyển, cách thành phố Varanasi, Ấn Độ khoảng 10 km là nơi Đức Phật giảng pháp. Trước đây, khu vườn có tên gọi là Mrigadava, có nghĩa là vườn nai. Theo điển tích, sau khi giảng kinh Chuyển Pháp Luân cho 5 vị tỳ kheo, Đức Phật đã ở lại tịnh xá trong vườn Lộc Uyển vào mùa mưa. Nơi đây cũng gắn liền với tích 60 vị tăng gia du hành khắp nơi để giảng Phật pháp và đắc quả A la hán. Ngày nay, các tòa nhà cổ và công trình ở khu vườn đã bị hư hại. Tuy nhiên vẫn còn lại di tích của tháp Dhamek; tháp Dharmarajika được dựng bởi vua A Dục hay tháp Chaukhandi, nơi Đức Phật gặp các đệ tử đầu tiên của mình. Ngoài ra, du khách cũng có thể tham quan di tích tịnh xá Mulagandhakuti, trụ đá vua A Dục và cây bồ đề chiết nhánh từ Bồ Đề Đạo Tràng. Câu Thi Na, nơi Đức Phật nhập Niết bàn Câu Thi Na hay thánh tích Kushinagar tọa lạc tại bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Đây là nơi Đức Phật nhập diệt dưới tàng cây sa la. Cũng giống như 3 thánh tích khác có liên quan đến cuộc đời Đức Phật, Câu Thi Na từng là thánh địa để các Phật tử về chiêm bái. Nơi đây đã tồn tại hàng nghìn tự viện, bảo tháp có từ thế kỷ thứ 3 - 5. Sau khi khai quật lại vào thế kỷ 19, các nhà khảo cổ đã phát hiện những mảnh vỡ của tượng Phật, các cột trụ và bia ký. Trong ảnh là đền Mahaparinirvana, được xây dựng lại trên những tàn tích cổ xưa của bảo tháp với tượng Phật nằm, có nguồn gốc từ thế kỷ 5. Nhà sư đang thiền định dưới bảo tháp Ramabhar. Theo điển tích, đây là nơi Đức Phật được hỏa táng. Khí hậu Ấn Độ chia thành 3 mùa chính là mùa đông, mùa hè từ tháng 3-6 và mùa mưa tháng 6-9. Thời gian đẹp nhất của du lịch Ấn Độ là vào mùa đông, từ tháng 10 đến hết tháng 2 năm, khi thời tiết ở khắp các bang đều mát mẻ và dễ chịu. Hiện du khách có thể bay thẳng với hãng hàng không IndiGo từ Hà Nội hoặc TP HCM đến Kolkata, Ấn Độ, rồi bay tiếp đến các thành phố khác. Gotadi hiện là đại diện duy nhất của hãng bay này tại Việt Nam, đồng thời cung cấp tour hành hương 8 ngày 7 đêm đến 4 thánh tích. Minh An
Hàng năm, cứ đến ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch, Phật tử khắp nơi lại thành tâm làm lễ kỷ niệm ngày xuất gia của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Một niềm tin vĩ đại mà Đức Phật đã cho tất cả chúng sanh là “Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật”. >>Những giáo lý Phật giáo nên đọc Sau khi thái tử Tất Đạt Đa giành chiến thắng vang dội cả về võ thuật lẫn thể thao trong tất cả các cuộc thi tài kén chọn phò mã của nàng công chúa vô cùng kiều diễm, thanh cao và hiền thục Da Du Đà La, Quốc vương Tịnh Phạn vô cùng vui mừng và tổ chức một lễ thành hôn long trọng, xa hoa theo đúng nghi thức hoàng gia cho Thái tử. Lúc đó, Đức Phật mới mười sáu tuổi với dung mạo tuấn tú phi phàm và phong thái thanh lịch, hòa nhã. Cuộc sống vương quyền giàu sang Sau khi thái tử Tất Đạt Đa giành chiến thắng vang dội cả về võ thuật lẫn thể thao trong tất cả các cuộc thi tài kén chọn phò mã của nàng công chúa vô cùng kiều diễm, thanh cao và hiền thục Da Du Đà La, Quốc vương Tịnh Phạn vô cùng vui mừng và tổ chức một lễ thành hôn long trọng, xa hoa theo đúng nghi thức hoàng gia cho Thái tử. Ảnh minh họa Thời đó, các thành viên hoàng tộc, đặc biệt là vị thái tử sẽ kế thừa ngôi vua, thường kết hôn rất sớm, vì vậy Thái tử Tất Đạt Đa không có lựa chọn nào khác ngoài vâng lệnh phụ vương. Theo tục lệ cổ truyền, một vị vua được quyền có nhiều thê thiếp, vì vậy phụ vương của Ngài đã tuyển lựa thêm cho Thái tử những phi tần xinh đẹp thuộc giai cấp quý tộc như nàng mrigaja Ridagkye, nàng gopa Satshoma và nàng yashakhi Dragdenma và ban cho Thái tử sáu nghìn cung phi mỹ nữ. Quốc vương Tịnh Phạn muốn con trai của mình được thỏa mãn tất cả mọi ý thích, ước muốn, như vậy Thái tử sẽ hài lòng với địa vị tôn quý và thụ hưởng mọi giàu sang, dục lạc thế gian, đồng thời canh giữ cẩn mật khiến Thái tử không có cơ hội từ bỏ đời sống vương giả xa hoa để đi theo chí nguyện tâm linh thúc giục tìm chân lý của sự sống. Lúc đó, sống trong cung điện tráng lệ với hàng ngàn cung phi mỹ nữ, thái tử Tất Đạt Đa đáp ứng mọi mong chờ của mọi người ở một vương tử mẫu mực. Ngài chăm lo cho công chúa Da Du Đà La, chính thê của Ngài, cùng tất cả phi tử của mình với tình yêu thương, lòng từ ái bình đẳng, vô phân biệt. Mặc dù không nhìn thấy bất kỳ cảnh khổ sở, đau đớn nào, xung quanh Thái tử chỉ có những cảnh sắc vui tươi, cao lương mỹ vị, nhã nhạc du dương, hoa viên thơm ngát và Ngài được xưng tán, chúc tụng với những ngôn từ cung kính, êm ái của các phi tử, quần thần, Thái tử Tất Đạt Đa vẫn bền bỉ nuôi dưỡng ước nguyện duy nhất vốn sẵn có trong mình là được từ bỏ cuộc sống hoàng gia để hoàn thành một điều gì đó thực sự ý nghĩa vì lợi ích hết thảy chúng sinh. Mười ba năm sống cùng các phi tử vô cùng dịu dàng và quyến rũ, nhưng Thái tử cảm thấy cuộc sống này thật vô nghĩa nếu không đạt giác ngộ. Trong suốt mười ba năm đó, mặc dù được phụ vương chăm lo, không thiếu thốn bất kỳ khoái lạc vật chất gì, nhưng càng ngày Thái tử càng tò mò muốn biết xem dân chúng lao động, sinh sống ra sao. Mười ba năm sống cùng các phi tử vô cùng dịu dàng và quyến rũ, nhưng Thái tử cảm thấy cuộc sống này thật vô nghĩa nếu không đạt giác ngộ. Ảnh minh họa Bốn cảnh màThái tử Tất Đạt Đa thấy Vào một ngày đẹp trời, Thái tử thực hiện một chuyến dạo chơi bằng xe ngựa dọc theo khu vườn thượng uyển lộng lẫy và rực rỡ sắc hoa cùng với đoàn tùy tùng vài ngàn người. Thoạt tiên, có vẻ như đây chỉ là một chuyến dạo mát thông thường trong một buổi chiều nắng đẹp, nhưng sau đó Thái tử chứng kiến một quang cảnh khác thường làm Ngài suy tư về bản chất của đời sống con người. Đặc biệt, Ngài bắt đầu nhận ra đời sống trong hoàng cung chẳng khác nào ngục tù không lối thoát. Thái tử nhận thấy những người thuộc dòng dõi quý tộc luôn căng thẳng, lo lắng vì bảo vệ của cải, địa vị và họ không hề nghĩ đến ai, chỉ chăm chăm quan tâm đến lợi ích của gia đình. Vào một ngày đẹp trời, Thái tử thực hiện một chuyến dạo chơi bằng xe ngựa dọc theo khu vườn thượng uyển lộng lẫy và rực rỡ sắc hoa cùng với đoàn tùy tùng vài ngàn người. Ảnh minh họa Đầu tiên, Đức Phật nhìn thấy một ông già rách rưới bẩn thỉu, đầu tóc rối bù, gầy gò như một bộ xương khô. Thân hình của người đó run rẩy theo từng bước chân, và khi ông ta nói thì chỉ là những từ bắp bắp không thể hiểu nổi. Thái tử choáng voáng khi thấy hình ảnh một con người thê thảm như vậy. Ngài nhìn lại bản thân mình, những ngón tay nuột nà, trẻ trung được trang điểm bằng ngọc ngà, châu báu và Ngài trầm tư suy ngẫm, liệu có một ngày mình cũng sẽ có cùng số phận như con người đáng thương kia tóc sẽ bạc, răng sẽ rụng, thân thể sẽ gày còm già yếu phải chống gậy khi bước đi, và đầu óc sẽ lẩn thẩn, mụ mẫm. Đầu tiên, Đức Phật nhìn thấy một ông già rách rưới bẩn thỉu, đầu tóc rối bù, gầy gò như một bộ xương khô. Ảnh minh họa Khi Thái tử Tất Đạt Đa đi ra ngoài hoàng cung, cảnh tượng thứ hai Ngài nhìn thấy là một người đàn ông ốm yếu, khuôn mặt tái nhợt không còn chút huyết sắc, toàn thân đầy những vết thương rỉ máu, mưng mủ lở loét như một xác chết đang rữa nát, bốc mùi hôi thối. Thái tử chưa bao giờ thấy một người ốm bệnh trong hoàng cung. Ngài suy ngẫm, thân thể con người được cấu thành bởi máu và thịt nên không thể tránh khỏi bệnh tật, đau ốm và cuối cùng sẽ bị rữa nát. Thậm chí, mặc dù thân thể của những thành viên trong hoàng tộc luôn được phục sức bằng lụa là gấm vóc, được tô điểm bằng ngọc ngà châu báu nhưng họ cũng như người đàn ông này, vẫn phải chịu đựng bệnh tật và đau đớn. Vậy thì dù ngự tại cung vàng điện ngọc trong giàu sang phú quý, cung tần mỹ nữ vây quanh, thụ hưởng vô số dục lạc thế gian thì cũng có ý nghĩa gì? Và thế là Thái tử Tất Đạt Đa bắt đầu trăn trở làm cách nào có thể đạt được trí tuệ toàn giác, thấu hiểu về bản chất của sự sống để thoát khỏi đau khổ, bệnh tật. Cảnh tượng thứ ba Ngài chứng kiến là một xác chết được khâm liệm bằng mảnh vải và rắc bên trên là những tràng hoa như một lời vĩnh biệt người khuất bóng, xung quanh là bà con họ hàng rũ rượi than khóc thảm thiết. Người đứng kẻ ngồi, vò đầu đấm ngực, kêu khóc than vãn họ không thể tin rằng thần chết đã cướp mất người thân yêu của mình, người tưởng chừng như không bao giờ chia lìa, rời xa họ. Tâm trí họ tràn ngập sự đau khổ, mất mát, họ than khóc và kêu gào trong nỗi bi thương cùng cực. Khi nghe thấy những tiếng than khóc và chứng kiến cảnh mọi người đau đớn trước nỗi khổ sinh tử phân ly, Thái tử cảm nhận nỗi đau ấy thật là cùng cực không thể nào chịu nổi. Toàn thân Ngài run rẩy và nước mắt tuôn trào. Ngài chẳng biết làm gì khác ngoài chia sẻ nỗi buồn và niềm thương tiếc đối với những người đang đau khổ vì mất mát người thân. Cảnh tượng thứ ba Ngài chứng kiến là một xác chết được khâm liệm bằng mảnh vải và rắc bên trên là những tràng hoa như một lời vĩnh biệt người khuất bóng, xung quanh là bà con họ hàng rũ rượi than khóc thảm thiết. Ảnh minh họa Cảnh tượng thứ tư Thái tử nhìn thấy là một vị tăng khoác tấm y vàng đơn sơ, giản dị, trên tay cầm bình bát, bước đi trong tĩnh lặng, tự tại đến nỗi như thể sự an lành thấm nhuần mặt đất theo từng bước chân ông, như thế trả về cho Đất Mẹ mọi thứ được ban tặng vô cùng hào phóng. Thật ra, vị tăng sỹ đặc biệt này được một sứ giả từ cõi thiên hóa hiện ra, để khích lệ Ngài từ bỏ đời sống vương giả. Khi ngắm nhìn vị tăng, Thái tử cảm thấy từ sâu thẳm lòng mình tràn ngập niềm an lành, hỷ lạc và Ngài tự nhủ cuộc sống xuất gia thật lý tưởng và cao thượng, nếu Ngài có thể từ bỏ những tham vọng thế tục và dâng hiến trọn đời theo đuổi chí nguyện tâm linh. Sau khi chứng kiến bốn cảnh tượng khác nhau, Thái tử Tất Đạt Đa hỏi những người hầu cận rằng có bao nhiêu người trong vương quốc phải chịu đau khổ như vậy. Họ thưa rằng không ai có thể tránh khỏi cảnh sinh già bệnh chết. Song họ cũng không biết đến một vị tu sỹ nào trong vương quốc có thể hoàn toàn từ bỏ mọi mục đích vị kỷ để phục vụ lợi ích tha nhân. Trên đường trở về hoàng cung, Thái tử nhìn thấy những người nông dân mặt mũi lấm lem, đầu tóc bê bết bụi bặm, đang cực nhọc lao động trên những cánh đồng. Chân tay của họ nứt nẻ và chảy máu, nhưng họ dường như không chú ý tới sự đau đớn đó. Da họ phồng rộp và bị thiêu đốt trong ánh nắng gay gắt vì phải làm việc hàng ngày dưới mặt trời chói chang. Dù thân thể như que củi, gầy còm và yếu ớt, nhưng để kiếm kế sinh nhai, họ cùng với đàn bò vẫn phải vất vả cày bừa, gieo trồng trên những thửa ruộng. Thái tử nhận ra họ sắp chết vì đói và khát. Quá thương xót những người nông dân và đàn bò lao lực, Ngài tặng họ rất nhiều đồ ăn thức uống và các loại nước bổ dưỡng. Ngài cho hầu cận xoa dầu và thuốc vào cổ các chú bò để chữa trị những vết thương trày trụa do phải mang ách kéo cày vô cùng nặng nhọc. Cuối chặng đường trở về hoàng cung, mặt trời tỏa nắng gay gắt, Thái tử và đoàn tùy tùng dừng chân nghỉ ngơi dưới bóng mát của một cây cổ thụ có tán lá tỏa rộng. Vì chuyến đi của Thái tử kéo dài khá lâu nên Quốc vương Tịnh Phạn vô cùng lo lắng, bèn cưỡi voi cùng với binh lính hộ vệ đi tìm con trai mình. Khi Quốc vương tìm thấy Thái tử đang an bình nghỉ ngơi trong bóng mát của cây cổ thụ, Quốc vương nhận thấy rằng mặc dù lúc đó mặt trời đã di chuyển sang hướng khác, nhưng bóng cây vẫn ở nguyên tại chỗ, lặng lẽ tỏa bóng mát cho Thái tử. Thấy hiện tượng kỳ diệu này, Quốc vương liền cúi đầu đỉnh lễ con trai mình. Ông cảm thấy ngay cả những vật vô tri vô giác như cây cối cũng sẵn sàng trợ giúp Thái tử, đây là dấu hiệu cho thấy Đức Phật đã tích lũy được vô lượng công đức và hoàn toàn xứng đáng để nhận sự kính trọng từ chính bậc phụ vương. Trong khi cả đoàn tùy tùng đang ngủ thiếp đi dưới bóng cây cổ thụ, người hầu cận riêng của Thái tử tâu lại cho Quốc vương về bốn cảnh tượng Thái tử đã nhìn thấy ở ngoài hoàng cung và gây những ảnh hưởng bất thường, mạnh mẽ cho Thái tử. Thái tử thấu hiểu sâu sắc những cảnh tượng đau khổ và vô cùng thương xót chúng sinh. Anh ta cũng kể cho Quốc vương rằng tấm y khoác của vị tu sĩ khổ hạnh đó, người đã từ bỏ cuộc sống thế tục, đã lôi cuốn Thái tử như thế nào. Nghe thấy như vậy, nỗi lo sợ rằng con trai mình sẽ rời bỏ hoàng cung và trở thành tu sĩ như một nhà thông thái Bà la môn đã tiên đoán trước vốn vẫn ẩn náu trong lòng Quốc vương Tịnh Phạn lại trỗi dậy. Ngài ra lệnh cho binh lính hầu cận canh phòng Thái tử cẩn mật hơn và chu cấp cho con trai mình tất cả tiện nghi, lạc thú, thậm chí Ngài còn tuyển thêm phi tần cho Thái tử, hy vọng rằng những điều này sẽ cuốn hút Thái tử an lòng hưởng thụ đời sống vương giả mãi mãi với nội cung gồm sáu mươi nghìn cung tần mỹ nữ! Cuối buổi chiều, Thái tử và đoàn tùy tùng tỉnh giấc, rời khỏi tán cây mát mẻ và tiếp tục lên đường trở về hoàng cung. Họ đi ngang qua một nghĩa địa, nơi có hàng trăm thi thể nằm la liệt trên mặt đất, lũ chó sói, chó rừng và chim kền kền đang tranh giành xác chết, chúng ăn thịt, liếm máu, gặm xương, lôi móc nội tạng người chết. Thái tử Tất Đạt Đa kinh hoàng và đau xót khi nhìn thấy sự mong manh của thân thể con người và sự ngắn ngủi của một kiếp sống. Tâm ý Ngài đã hoàn toàn chuyển biến. Bất chấp sự giàu sang, lạc thú đang chờ đợi nơi hoàng cung, trong lòng Thái tử chỉ có một nguyện ước duy nhất là rời bỏ đời sống vương giả để trở thành một vị tu sĩ tìm đạo chân chính. Thái tử tin rằng nếu trở thành một tu sỹ đạo hạnh, Ngài sẽ có khả năng giúp ích cho chúng sinh nhiều hơn là trở thành một vị vua quyền lực mà không biết khổ đau thực sự của thế gian. Kể từ ngày đó, Thái tử không còn cảm thấy vui thú gì với cuộc sống vương giả nữa. Nguồn
Chí nguyện đã chín muồi, vào ngày trăng tròn tháng hai sau một buổi yến tiệc linh đình trong hoàng cung ngài đã cùng với người hầu thân cận Xa-nặc, với con ngựa Kiền-trắc âm thầm từ biệt cha già, vợ con, người thân rời khỏi kinh thành Vài ý nghĩ nhỏ về đức dũng của người Phật tửĐức Phật Thích Ca xuất hiện trên cõi ta-bà này đã hai mươi sáu thế kỷ và giáo pháp của ngài giờ đây đã lan tỏa khắp cùng năm châu bốn biển. Nếu nói ngài là một vị giáo chủ của một tôn giáo thì đúng là ngài là một vị giáo chủ đặc biệt nhất không giống như bất kỳ vị giáo chủ nào của các tôn giáo khác trên toàn cầu. Trước hết điều đặc biệt nhất là ngài là một giáo chủ nhưng xuất hiện ở trần gian trong hình hài một con người như hàng triệu triệu con người khác trên hành tinh. Điều tiếp theo là hình như chưa có vị giáo chủ một tôn giáo nào mà đặt vị trí của tín đồ ngang hàng với mình như Đức Phật Phật và chúng sanh cùng một thể tánh, cũng không có vị giáo chủ nào tuyên bố rằng nếu tín đồ cố gắng tu hành thì sẽ đắc quả ngang với mình như đức Phật Lời Phật Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành. Chỉ ba điều đặc thù này thôi cũng đủ cho thấy Đức Phật là một vị giáo chủ siêu việt và bình đẳng như thế nào. Cũng vì những nét đặc thù như thế nên mặc dầu đã ra đời cách đây hai mươi sáu thế kỷ nhưng đến nay giáo lý đạo Phật vẫn là có một sự thu hút mãnh liệt đối với những ai yêu thích nghiên cứu hoặc tu tập theo tôn giáo này. Trở lại với Đức Phật, sau khi tự tìm ra chân lý về vũ trụ và nhân sinh ngài đã đem ánh sáng đạo mầu đó giáo hóa cho chúng sanh trong suốt bốn mươi lăm năm theo giáo lý Nguyên Thủy và để lại cho nhân loại một kho tàng kinh điển đồ sộ mà muốn đọc qua một lượt tất cả những kinh điển đó e cần phải bỏ ra cả một đời người! Đối với đa số các tôn giáo khác thì tín đồ đều y nương vào giáo lý của vị giáo chủ đã tuyên thuyết để thực hành là được, vì những vị giáo chủ đó không phải là một con người mà họ là bậc thánh nên hành vi của họ không phải là hành vi của một con nguời bình thường, nhưng đối với Phật giáo thì ngoài việc thực hành những lời dạy của Đức Phật trong giáo điển ra, cuộc đời của Đức Phật cũng là một bài thuyết giáo không lời và rất hiệu quả. Thật vậy cuộc đời của đức Phật từ khi sơ sanh cho đến khi nhập diệt là những bài giáo pháp rất thiện xão mà người phật tử cần chiêm nghiệm để tu tập. Các nhà viết sử đã ghi nhận rằng vào thời Đức Phật còn tại thế những người tìm đến xin xuất gia cầu học đạo với ngài đa số họ ngưỡng mộ chính là hành vi nhân thân của ngài hơn là nghe giáo pháp của ngài. Đức Phật lịch sử đã ra đời cách đây hai mươi sáu thế kỷ, một thời gian khá lâu để cho chúng ta có thể tìm hiểu một cách chính xác nhất về chi tiết cuộc đời của ngài. Hiện nay chúng ta được biết cuộc đời của ngài qua kinh sách, qua những lời truyền tụng từ nhiều đời được những nhà viết sử ghi lại, trong đó có những hiện tượng huyền bí đan xen vào. Là những phật tử sống cách xa Đức Phật đến hơn hai ngàn sáu trăm năm vì thế chúng ta cũng không dám tìm hiểu và xác quyết thật hư câu chuyện về cuộc đời ngài. Trước hết vì ngài là một vị bồ-tát giáng trần theo nguyện lực thì những hiện tượng kỳ bí trong cuộc đờì ngài là một điều hoàn toàn có thể xảy ra, cũng có thể những đệ tử hậu lai của ngài vì quá tôn sùng ngài mà vẽ vời thêm những câu chuyện huyền bí chung quanh cuộc đời ngài để tôn vinh ngài và tăng phần thuyết phục đối với người đời sau … Thái độ của người phật tử chúng ta là nên tiếp nhận tất cả mà không nên phân tích, lý luận thực hư theo nhãn quan của phàm phu để rồi rơi vào cực đoan hoặc giao động niềm tin là một điều không nên. Vì cho dù xét cuộc đời ngài về khía cạnh lịch sử thực tế hay huyền sử thì cái nào cũng có những mặt tích cực của nó. Nhân kỷ niệm ngày đức Phật xuất gia tìm đạo 8/2 âm lịch, xin mạo muội phân tích sự kiện quan trọng này dưới nhãn quan của một người phật tử phàm phu và vì thế xin được phép đặt sự kiện thái tử xuất gia như là hành động của một con người bình thường. Lịch sử đã ghi lại thái tử Tất-đạt-đa sinh ra trong một gia tộc vương quyền, phụ thân của ngài là quốc vương của thành Ca-tỳ-la-vệ, vì vậy đương nhiên ngài là một hoàng tử. Tìm hiểu lịch sử chúng ta cũng biết rằng thành Ca-tỳ-la-vệ hồi đó chỉ là một tiểu quốc và đời sống người dân xứ đó cách đây 26 thế kỷ chắc chắn rất nghèo và có một lối sống còn hoang sơ lắm! Chắc chắn là không có được một hoàng thành nguy nga tráng lệ và con người với những phục sức đẹp đẻ, sang trọng như chúng ta thấy trên phim ảnh hoặc tranh, truyện tái hiện về cuộc đời ngài hiện nay. Nhưng chúng ta cũng cần biết một điều là ở cái xứ mà phân biệt giai cấp hàng đầu thế giới như thế thì những người trong giai cấp sát-đế-lỵ, hơn nữa là một thái tử là một người sắp nối ngôi vua cha trong tương lai thì mọi tiện nghi phục vụ cho đời sống của ngài chắc chắn là phải xa hoa sung sướng kể rằng sau khi thái tử hạ sanh được ông tiên A-tư-đà đến tiên đoán rằng sau này nếu làm vua sẽ là một bậc chuyển luân thánh vương cai trị khắp thiên hạ, còn nếu xuất gia tu hành thì sẽ đạt quả vị giác ngộ và làm vị giáo chủ . Với niềm mong mỏi có được một người con nối nghiệp vương quyền nên vua Tịnh-phạn đã làm tất cả để hướng cuộc sống và tâm tư của thái tử theo hướng hưởng thụ dục lạc thế gian như xây cung vàng điện ngọc, được học hành với những vị thầy tài danh nhất, được hầu hạ bởi những cung nữ xinh đẹp nhất, được ăn những món cao lương mỹ vị nhất và sau này khi trưởng thành được cưới nàng công chúa Da-du-đà-la xinh đẹp nhất. Bên cạnh đó vua tìm cách không cho ngài tiếp xúc với bất kỳ cảnh khổ nào của thế gian đang xảy ra chung quanh, để ngài chỉ thấy chung quanh mình là một cuộc sống xa hoa sung sướng mà không hề có ý niệm nào về cảnh khổ cuộc đời ! Có thể ví ngài là một con chim được nuôi từ khi mới ra khỏi trứng trong cái lồng vàng bị bịt kín! Thế nhưng với tâm thức của một vị Bồ-tát tái thế, chỉ cần một vài cảnh khổ của trần gian lọt vào mắt ngài, và với tư duy tuệ giác của một vị Bồ-tát đang hiện thân để thực hành hạnh nguyện, ngài đã “thấy” được tất cả sự huyển hóa của chốn trần gian và khổ đau của nhân loại và vì thế chí nguyện xuất gia tìm đạo cứu độ chúng sanh cứ nung nấu tâm can ngài không lúc nào rời khỏi. Bao nhiêu dục lạc trong chốn cung cấm mà ngài đang có đã không làm cho ngài vơi đi nỗi niềm này. Thế rồi khi chí nguyện đã chín muồi, vào ngày trăng tròn tháng hai sau một buổi yến tiệc linh đình trong hoàng cung ngài đã cùng với người hầu thân cận Xa-nặc, với con ngựa Kiền-trắc âm thầm từ biệt cha già, vợ con, người thân rời khỏi kinh thành. Đến bờ sông Anoma ngài xuống ngựa dùng gươm cắt tóc, cởi hoàng bào đưa và dặn Xa-nặc về tạ tội với phụ vương xin hãy tha thứ và đừng tìm ngài nữa vì từ đây ngài đã quyết chí xuất gia tìm đạo cứu chúng sanh. Thế là ngài đã dứt áo ra đi, từ đây mở ra một chân trời mới, một mình một bóng ngài đã lặn lội nơi đèo sâu núi thẳm để tìm đạo. Thế rồi sau hai lần học đạo, sáu năm khổ hạnh rừng già, cuối cùng là bốn mươi chín ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây tất-bát-la bên dòng sông Ni-liên-thuyền ngài đã chứng thành đạo quả tìm ra chân lý cứu chúng sanh. Kể từ đó ngài đem ánh đạo mầu hoằng hóa và cho đến bây giờ trải qua hai mươi sáu thế kỷ ánh đạo vàng đã sáng soi khắp cõi ta-bà, cứu độ muôn vàn chúng sanh thoát khỏi bể khổ trầm luân, đồng thời để cho hôm nay chúng ta được duyên phước nhận mình là đệ tử của ngài và học theo ngài trên hành trình giải thoát biển khổ đến bến bờ an vui, giải thoát. Xét về cuộc đời của đức Phật lịch sử, chúng ta thấy ngài xuất hiện giửa cõi trần thế này với một hình ảnh một con người đích thực, cũng phải chịu luật vô thường chi phối, cũng phải trải qua các giai đọan của một đời người là sinh-già-bệnh-chết, cũng đầy đủ thất tình, lục dục của kiếp nhân sinh. Nhưng cái khác biệt lớn nhất giửa ngài và chúng ta là ngài đã vượt thoát ra tất cả, ngài đã đoạn trừ khỏi mọi dục lạc thế gian mà ngài đang hưởng thụ. Cuộc sống với những tiện nghi xa hoa mà ngài đang có là niềm mơ ước của biết bao người, thế nhưng ngài đã dứt khoát buông bỏ để dấn thân làm người du sĩ ngày đêm lặn lội nơi rừng sâu núi thẳm, âm thầm tìm chân lý cứu chúng sanh. Đang có một đời sống ngập chìm trong mọi dục lạc cao sang của một vị thái tử vì sao mà ngài lại cam đảm từ bỏ như thế? Phải chăng vì ngài vốn là một một bậc đã hoàn toàn giác ngộ và tất cả những gì xảy ra trong đời ngài chỉ là một sự “thị hiện” để làm gương, chỉ là một pháp phương tiện để giáo hóa chúng sanh?. Nếu thật sự như thế thì giáo pháp của ngài khó mà thuyết phục được hậu thế noi theo để tu tập vì ai cũng sẽ nghĩ rằng -Dầu sao thì ngài cũng là một vị Phật rồi, nên những hành vi của ngải để đạt được quả vị giác ngộ là điều đương nhiên và tất cả những gì diễn ra trong cuộc đời đức Phật chỉ là mang tính phương tiện để giáo dục tín đồ, chứ phàm phu tục tử như chúng ta ai mà làm được như ngài! Thế cho nên ngài cũng chỉ là một con người, nhưng là một con người có TRÍ TUỆ tuyệt vời và đang mang hạnh nguyện của một vị bồ-tát giáng trần nên dù được sống trong nhung lụa và hằng ngày chỉ thấy chung quanh mình những điều tốt đẹp đang diễn ra, nhưng chỉ cần một đôi lần chứng kiến những cảnh khổ ở đời ngài cũng đã “thấy” được nỗi khổ đau của kiếp sống nhân sinh. Là một con người với tâm ĐẠI BI nên ngài có một trái tim rộng lớn, không chỉ biết thương yêu cha mẹ, vợ con và những người thân mà ngài đã đem tâm từ rải khắp quần sanh, thương xót chúng sanh đang trầm luân trong biển khổ. Với tâm đại bi nên ngài không chỉ biết giúp đở họ bằng vật chất như sự hành xử của một con người bình thường mà ngài đã quyết chí đi tìm cho ra ngọn ngành của sự khổ và từ đó tìm cho được con đường thoát khổ, tìm cho ra giải pháp đoạn trừ đau khổ tận gốc rể để cứu độ tất cả chúng sanh. Với tâm ĐẠI TRÍ nên dù chứng kiến rất ít nhưng ngài đã thấy tất cả khổ đau mà chúng sanh đang ngụp lặn trong đó, với tâm ĐẠI BI ngài đã chọn con đường thoát ra khỏi ngục vàng của chốn hoàng cung, hy sinh tình yêu thương với những người thương yêu nhất là cha già, vợ con, thân quyến để dấn thân tìm đạo để cứu đời. Nhưng để hiện thực hóa tâm đại bi, đại trí và để đạt được chí nguyện ấy ngài phải có một DŨNG LỰC kiên cường mới thực hiện được. Vì xuất thân là một con người nên ngài cũng phải chiến đấu quyết liệt với bản thân để hy sinh tình thương của cha già, vợ đẹp, con thơ và những tình thân khác, ngài cũng phải kiên cường lắm mới từ bỏ ngai vàng đầy quyền uy và những dục lạc đang thụ hưởng để dứt áo ra đi dấn thân vào rừng hoang, núi sâu đối diện với bao gian lao, chướng ngại để tìm đạo… Cuộc hành trình tìm chân lý của ngài còn nhiều điều để phật tử hậu lai suy ngẫm và học hỏi, nhưng cái thời khắc bi tráng nhất có lẽ là lúc ngài đứng bên bờ sông Anoma dùng gươm cắt tóc và cởi hoàng bào đưa cho Xa-nặc. Chúng ta không khỏi động lòng khi hình dung giây phút bi hùng ấy, giây phút mà thanh gươm báu cắt đứt mái tóc dài của người, nhóm trần lao kia đã ra khỏi thân ngài như là một lời nguyện kể từ đây con đường ngài đi dù bao nhiêu gian khổ cũng quyết tìm cho ra chân lý, dù bao nhiêu chướng ngại cũng không thối chuyển tâm nguyện. Chí nguyện ấy thật kiên cường biết bao và cuối cùng ngài cũng đã thành tựu đạo quả để cho hôm nay nhân loại được tắm gội trong ánh hào quang tỏa rạng giáo pháp của ngài. Một bậc đại giác đã viên thành đạo quả, một giáo pháp được lan truyền cứu độ vô số chúng sanh suốt chiều dài hai mươi sáu thế kỷ và mãi mãi về sau. Tất cả đã đươc khởi đầu bằng một cuộc chia ly đậm chất bi tráng và hào hùng. Bởi vậy có thế nói sự kiện thái tử Tất-đạt-đa xuất gia là biểu tượng của TỪ BI, TRÍ TUỆ VÀ DŨNG LỰC vậy./.
Nhân vật Phật giáo🞄 02/5/2023 Có phải Hoàng hậu Ma Da hết phước khi sinh Đức Phật nên mới qua đời? Bà là người như thế nào? Liệu có phải là người mẹ đặc biệt nhất thế gian như trong kinh điển thường nói? Nhân vật Phật giáo 🞄 02/5/2023 Có phải Hoàng hậu Ma Da hết phước khi sinh Đức Phật nên mới qua đời? Bà là người như thế nào? Liệu có phải là người mẹ đặc biệt nhất thế gian như trong kinh điển thường nói? Bài viết🞄 09/4/2023 Tôn giả Ma Ha Ca Diếp là một vị Tỳ-kheo gương mẫu với phẩm hạnh đầu đà đệ nhất trong 10 vị đại đệ tử của Đức Phật. Bài viết 🞄 09/4/2023 Tôn giả Ma Ha Ca Diếp là một vị Tỳ-kheo gương mẫu với phẩm hạnh đầu đà đệ nhất trong 10 vị đại đệ tử của Đức Phật. Bài viết🞄 09/4/2023 Tôn giả Ma Ha Ca Diếp được biết đến là vị Thánh tăng đệ nhất đầu đà trong 10 đại đệ tử của Đức Phật. Khi còn ở thế tục, Ngài có tên là Tất Bát La Da Na. Bài viết 🞄 09/4/2023 Tôn giả Ma Ha Ca Diếp được biết đến là vị Thánh tăng đệ nhất đầu đà trong 10 đại đệ tử của Đức Phật. Khi còn ở thế tục, Ngài có tên là Tất Bát La Da Na. Bài viết🞄 14/12/2022 Thiên Ma Ba Tuần, hay còn gọi là Ma Vương hoặc vua ma. Chúng được coi là thành phần chuyên cản phá thiện Pháp, làm cho thiện Pháp không thể tăng trưởng... Bài viết 🞄 14/12/2022 Thiên Ma Ba Tuần, hay còn gọi là Ma Vương hoặc vua ma. Chúng được coi là thành phần chuyên cản phá thiện Pháp, làm cho thiện Pháp không thể tăng trưởng... Nhân vật Phật giáo🞄 26/11/2022 Cuộc đời và sự nghiệp của Phật hoàng Trần Nhân gắn liền với những đóng góp to lớn cho dân tộc, cho đạo Pháp... Nhân vật Phật giáo 🞄 26/11/2022 Cuộc đời và sự nghiệp của Phật hoàng Trần Nhân gắn liền với những đóng góp to lớn cho dân tộc, cho đạo Pháp... Bài viết🞄 17/11/2022 Tại sao thông qua bài kệ, người đọc có thể hiểu và áp dụng được những phương pháp tu tâm ngay giữa chốn trần gian phiền não?... Bài viết 🞄 17/11/2022 Tại sao thông qua bài kệ, người đọc có thể hiểu và áp dụng được những phương pháp tu tâm ngay giữa chốn trần gian phiền não?... Bài viết🞄 17/11/2022 Đức vua Trần Nhân Tông là một nhà quân sự lỗi lạc, một vị anh quân cao quý, Ngài đã hai lần lãnh đạo quân dân đánh thắng giặc Nguyên Mông... Bài viết 🞄 17/11/2022 Đức vua Trần Nhân Tông là một nhà quân sự lỗi lạc, một vị anh quân cao quý, Ngài đã hai lần lãnh đạo quân dân đánh thắng giặc Nguyên Mông... Nhân vật Phật giáo🞄 03/4/2022 Niêm hoa vi tiếu là một câu chuyện đặc biệt trong Phật giáo, đây là nguồn khởi duyên to lớn và thù thắng cho việc Ngài Ca Diếp lưu giữ pháp hạnh đầu đà lưu truyền nơi thế gian. Nhân vật Phật giáo 🞄 03/4/2022 Niêm hoa vi tiếu là một câu chuyện đặc biệt trong Phật giáo, đây là nguồn khởi duyên to lớn và thù thắng cho việc Ngài Ca Diếp lưu giữ pháp hạnh đầu đà lưu truyền nơi thế gian. Nhân vật Phật giáo🞄 28/3/2022 Này A Nan, ông Tu Bạt Đà La tuy là ngoại đạo, mà thiện căn của ông ấy thành thục, duy có Như Lai biết được. Vậy nên, sau khi Như Lai nhập Niết bàn nếu có người ngoại đạo muốn xin xuất gia trong giáo Pháp của Như Lai Nhân vật Phật giáo 🞄 28/3/2022 Này A Nan, ông Tu Bạt Đà La tuy là ngoại đạo, mà thiện căn của ông ấy thành thục, duy có Như Lai biết được. Vậy nên, sau khi Như Lai nhập Niết bàn nếu có người ngoại đạo muốn xin xuất gia trong giáo Pháp của Như Lai Nhân vật Phật giáo🞄 16/3/2022 Angulimala khẩn cầu “Kính lạy Đức Thế Tôn! Con đã biết tội của mình rồi! Ngài đã đích thân ngự đến khu rừng này là vì hạnh phúc an vui lâu dài cho chính con. Ngài đã từ bi giúp con Nhân vật Phật giáo 🞄 16/3/2022 Angulimala khẩn cầu “Kính lạy Đức Thế Tôn! Con đã biết tội của mình rồi! Ngài đã đích thân ngự đến khu rừng này là vì hạnh phúc an vui lâu dài cho chính con. Ngài đã từ bi giúp con Nhân vật Phật giáo🞄 18/01/2022 Nhân kỷ niệm ngày Đức Phật thành đạo 08/12/âm lịch, chùa Ba Vàng xin gửi tới quý Phật tử vở hoạt kịch “Bát cháo sữa của nàng Sujata và sự kiện Đức Phật thành đạo” Nhân vật Phật giáo 🞄 18/01/2022 Nhân kỷ niệm ngày Đức Phật thành đạo 08/12/âm lịch, chùa Ba Vàng xin gửi tới quý Phật tử vở hoạt kịch “Bát cháo sữa của nàng Sujata và sự kiện Đức Phật thành đạo” Nhân vật Phật giáo🞄 03/01/2022 Trong đêm thứ 49 Đức Phật thành đạo Thiên ma Ba Tuần đã đến quấy phá để cản trở Ngài đạt đạo. Nhưng với sự kiên định vững vàng và năng lực của 30 pháp hành Ba-la-mật, Ngài đã chiến thắng cả nội ma Nhân vật Phật giáo 🞄 03/01/2022 Trong đêm thứ 49 Đức Phật thành đạo Thiên ma Ba Tuần đã đến quấy phá để cản trở Ngài đạt đạo. Nhưng với sự kiên định vững vàng và năng lực của 30 pháp hành Ba-la-mật, Ngài đã chiến thắng cả nội ma Nhân vật Phật giáo🞄 30/9/2021 Nhờ tài sản ấy mà chùa Ba Vàng mới trở thành nơi hoằng dương chính Pháp rộng lớn như ngày hôm nay Nhân vật Phật giáo 🞄 30/9/2021 Nhờ tài sản ấy mà chùa Ba Vàng mới trở thành nơi hoằng dương chính Pháp rộng lớn như ngày hôm nay Nhân vật Phật giáo🞄 09/9/2021 Tiền thân của Đức Địa Tạng Bồ Tát trong vô số kiếp quá khứ tùy theo nhân duyên và thời đại khác nhau mà phát những lời đại nguyện cứu độ khắp tất cả chúng sinh trong vô lượng kiếp sinh tử luân hồi. Nhân vật Phật giáo 🞄 09/9/2021 Tiền thân của Đức Địa Tạng Bồ Tát trong vô số kiếp quá khứ tùy theo nhân duyên và thời đại khác nhau mà phát những lời đại nguyện cứu độ khắp tất cả chúng sinh trong vô lượng kiếp sinh tử luân hồi. Nhân vật Phật giáo🞄 13/8/2021 Trong một kiếp, tiền thân của Bồ tát Địa Tạng vì thương mẹ, nghĩ đến quả báo khổ đau mẹ phải gánh chịu mà mở rộng tâm từ bi thương tưởng đến tất cả chúng sinh, phát lời đại nguyện rộng lớn cứu độ chúng sinh Nhân vật Phật giáo 🞄 13/8/2021 Trong một kiếp, tiền thân của Bồ tát Địa Tạng vì thương mẹ, nghĩ đến quả báo khổ đau mẹ phải gánh chịu mà mở rộng tâm từ bi thương tưởng đến tất cả chúng sinh, phát lời đại nguyện rộng lớn cứu độ chúng sinh Nhân vật Phật giáo🞄 12/8/2021 Quang Mục - tiền thân của Bồ Tát Địa Tạng Vương trong một kiếp vì thương xót người mẹ bị đọa địa ngục mà phát lời đại nguyện rộng lớn Nhân vật Phật giáo 🞄 12/8/2021 Quang Mục - tiền thân của Bồ Tát Địa Tạng Vương trong một kiếp vì thương xót người mẹ bị đọa địa ngục mà phát lời đại nguyện rộng lớn
hoàng tử tất đạt đa